Tình Hình Xuất Nhập Khẩu 2 Tháng Đầu Năm 2023 Tphcm

Tình Hình Xuất Nhập Khẩu 2 Tháng Đầu Năm 2023 Tphcm

Theo Báo cáo của Trung tâm chuyển đổi số và thống kê nông nghiệp - Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, tình hình xuất, nhập khẩu và cán cân thương mại nông lâm thủy sản 2 tháng đầu năm 2024 như sau:

Theo Báo cáo của Trung tâm chuyển đổi số và thống kê nông nghiệp - Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, tình hình xuất, nhập khẩu và cán cân thương mại nông lâm thủy sản 2 tháng đầu năm 2024 như sau:

tháng đầu năm xuất khẩu thủy sản cán mốc 3.6 tỷ

Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), trong tháng 5/2024, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam ước đạt 870 triệu USD, tăng hơn 7% so với cùng kỳ năm ngoái. Cụ thể, các mặt hàng như cá ngừ và cua ghẹ đã có sự bứt phá mạnh mẽ, trong khi xuất khẩu cá tra, mực, và bạch tuộc chỉ tăng nhẹ. Riêng mặt hàng tôm thấp hơn một chút so với cùng kỳ năm ngoái​.

Lũy kế 5 tháng đầu năm 2024, tổng giá trị xuất khẩu thủy sản đạt 3,6 tỷ USD, tăng 6,5% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, xuất khẩu cá ngừ tăng 36% đạt trên 95 triệu USD, với các sản phẩm cá ngừ đóng hộp tăng 18%, đóng túi tăng gấp hơn 3,5 lần, cá ngừ loin/fillet đông lạnh tăng 25%, và cá ngừ nguyên con đông lạnh tăng gần hơn 7 lần so với tháng 5/2023. Tính đến hết tháng 5/2024, xuất khẩu cá ngừ đạt gần 397 triệu USD, tăng 25% so với cùng kỳ năm trước.

Xuất khẩu cua ghẹ trong tháng 5 tăng gần 92% đạt trên 26 triệu USD. Lũy kế 5 tháng đầu năm, xuất khẩu mặt hàng cua ghẹ đạt 101 triệu USD, tăng 84% so với cùng kỳ năm ngoái, chủ yếu nhờ sự tăng trưởng mạnh mẽ từ các sản phẩm cua​. Xuất khẩu cá tra cũng tăng 10% trong tháng 5, và lũy kế tại 5 tháng đầu năm đã đạt gần 755 triệu USD, tăng nhẹ 3% so với cùng kỳ năm ngoái. Mực và bạch tuộc cùng các loài cá khác tăng nhẹ 3% trong tháng 5​​.

5 tháng đầu năm 2024 đạt 3.6 tỷ

Riêng xuất khẩu tôm giảm 1,5% trong tháng 5 đạt 326 triệu USD, nhưng lũy kế 5 tháng đầu năm vẫn giữ mức tăng trưởng 7% đạt 1,3 tỷ USD​.

Các thị trường lớn của nước ta đã có tín hiệu hồi phục dần về cả nhu cầu tiêu thụ và giá nhập khẩu. Trong đó, xuất khẩu thủy sản sang các nước như: Mỹ, Nhật Bản, EU, và Hàn Quốc đều tăng trưởng trong tháng 5 với mức tăng từ 5% đến 26%, trong khi xuất khẩu sang Trung Quốc giảm 8% so với cùng kỳ. Đến cuối tháng 5, Mỹ vẫn dẫn đầu với mức tăng trưởng 13%, đạt 635 triệu USD giá trị nhập khẩu thủy sản từ Việt Nam. Xuất khẩu sang Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc và EU chỉ tăng trưởng khiêm tốn từ 3% đến 4% so với cùng kỳ năm ngoái​.

Mục tiêu xuất khẩu thủy sản Việt Nam trong năm 2024

Dự báo cho năm 2024, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam có thể đạt từ 9,5 tỷ USD đến 10 tỷ USD nhờ sự điều chỉnh và thích nghi với bối cảnh thị trường. Tuy nhiên, ngành thủy sản vẫn đối mặt với nhiều thách thức như chi phí sản xuất tăng, nhu cầu tiêu thụ toàn cầu hồi phục chậm, và các vấn đề địa chính trị tiếp tục làm xáo trộn thương mại toàn cầu​​.

Nhìn chung, dù gặp nhiều khó khăn, ngành thủy sản Việt Nam vẫn đang nỗ lực tận dụng các cơ hội để phục hồi và phát triển bền vững trong thời gian tới. Các biện pháp bao gồm nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường xuất khẩu, và cải tiến công nghệ sản xuất nhằm giảm chi phí và tăng hiệu quả. Bên cạnh đó, việc tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế và thúc đẩy thương hiệu quốc gia cũng là những yếu tố quan trọng giúp ngành thủy sản Việt Nam cạnh tranh trên thị trường quốc tế..

Ước tính theo số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan, trong tháng 8/2022 xuất khẩu chè đạt 12 nghìn tấn, trị giá 21 triệu USD, giảm 4% về lượng, nhưng tăng 0,8% về trị giá so với tháng 7/2022; tăng 16% về lượng và tăng 22,6% về trị giá so với tháng 8/2021. Tính chung trong 8 tháng đầu năm 2022, xuất khẩu chè ước đạt 78 nghìn tấn, trị giá 135 triệu USD, giảm 2,2% về lượng, nhưng tăng 1,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021.

Giá chè xuất khẩu bình quân trong tháng 8/2022 ước đạt 1.7810 USD/tấn, tăng 56% so với tháng 8/2021. Tính chung trong 8 tháng đầu năm 2022, giá chè xuất khẩu bình quân ước đạt 1.727,8 USD/tấn, tăng 3,8% so với cùng kỳ năm 2021. Tình trạng giãn cách xã hội do dịch bệnh bùng phát vào thời điểm tháng 8/2021 khiến hoạt động sản xuất và xuất khẩu của nhiều ngành hàng bị gián đoạn, trong đó có mặt hàng chè. Điều này dẫn tới lượng và trị giá xuất khẩu chè trong tháng 8/2021 ở mức thấp. Vì vậy, lượng và trị giá xuất khẩu chè trong tháng 8/2022 tăng rất mạnh so với tháng 8/2021, tuy nhiên vẫn giảm nhẹ về lượng, nhưng tăng về trị giá so với tháng 7/2022 do giá tăng.

Trước đó, xuất khẩu chè trong tháng 7/2022 đạt 12,5 nghìn tấn, trị giá 21,2 triệu USD, tăng 8,7% về lượng và tăng 2,1% về trị giá so với tháng 7/2021. Giá chè xuất khẩu bình quân trong tháng 7/2022 đạt 1.695,4 USD/tấn, giảm 6,1% so với tháng 7/2021. Tính chung 7 tháng đầu năm 2022, xuất khẩu chè đạt 66,2 nghìn tấn, trị giá 113,7 triệu USD, giảm 4,9% về lượng và giảm 1,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021; Giá chè xuất khẩu bình quân đạt 1.718,1 USD/tấn, tăng 3,4% so với cùng kỳ năm 2021.

Trong cơ cấu chủng loại chè xuất khẩu trong 7 tháng đầu năm 2022, chè xanh và chè đen là 2 chủng loại xuất khẩu chính, với lượng chiếm 89% tổng lượng chè xuất khẩu. Trong khi chè xanh xuất khẩu ghi nhận tốc độ tăng trưởng cả về lượng và trị giá, thì chủng loại chè đen xuất khẩu giảm mạnh, đạt 28 nghìn tấn, trị giá 41,2 triệu USD, giảm 15,3% về lượng và giảm 12,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021.

Đáng chú ý, chủng loại chè ô long xuất khẩu trong 7 tháng đầu năm 2022 chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng lượng chè xuất khẩu, nhưng lượng và trị giá tăng rất mạnh, đạt 338 tấn, trị giá 1 1 triệu USD, tăng 69,7% về lượng và tăng 162,9% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021. Giá chè ô long xuất khẩu bình quân đạt 3.016,4 USD/tấn, tăng 54,9% so với cùng kỳ năm 2021. Chè ô long xuất khẩu tới thị trường Đài Loan và Trung Quốc, với lượng chiếm 97% tổng lượng chè ô long xuất khẩu.

Pakistan là thị trường xuất khẩu chè chính của Việt Nam. Trong 7 tháng đầu năm 2022, chè xuất khẩu sang thị trường này tăng mạnh cả về lượng và trị giá, đạt 26,2 nghìn tấn, trị giá 49,6 triệu USD, tăng 21,9% về lượng và tăng 17,9% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021.

Trong khi đó, chè xuất khẩu sang thị trường Đài Loan, Nga, Trung Quốc, Iraq và Ấn Độ giảm mạnh trong 7 tháng đầu năm 2022. Chè xuất khẩu sang thị trường Đài Loan đạt 8,7 nghìn tấn, trị giá 14,8 triệu USD, giảm 16,3% về lượng và giảm 7,9% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021. Chè xuất khẩu tới thị trường Nga đạt 5,2 nghìn tấn, trị giá 9 triệu USD, giảm 30,9% về lượng và giảm 25,3% về trị giá; tới Trung Quốc đạt 3,4 nghìn tấn, trị giá 6,9 triệu USD, giảm 47,5% về lượng và giảm 31,5% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021.

Đáng chú ý, xuất khẩu chè tới thị trường Hoa Kỳ, Malaysia và Ả rập Xê –út tăng rất mạnh trong 7 tháng đầu năm năm 2022. Tốc độ tăng trưởng mạnh trong xuất khẩu chè sang các thị trường này cho thấy chè của Việt Nam đã đáp ứng được nhu cầu khó tính của người tiêu dùng. Cơ hội cho các doanh nghiệp xuất khẩu chè của Việt Nam rất lớn, khi các thị trường này đều là thị trường nhập khẩu chè lớn trên toàn cầu.

Theo nguồn worldstopexports.com, trong năm 2021 Hoa Kỳ là thị trường nhập khẩu chè lớn thứ 2 thế giới sau Pakistan, đạt 531,8 triệu USD, chiếm 8,1% tổng trị giá nhập khẩu toàn thế giới; Ả rập Xê-út là thị trường nhập khẩu lớn thứ 10 trên thế giới, đạt 188,9 triệu USD, chiếm 2,9% tổng trị giá nhập khẩu toàn thế giới.